Truyện ký - ĐẶNG DUY THÁI
Tháng 3 năm 1997, tôi từ Trợ lý Chính trị
Hệ 2 (Chuyển loại sĩ quan) về làm Phó Đại đội trưởng chính trị Đại đội 3, Tiểu
đoàn 5, Học viện Chính trị-Quân sự (nay thuộc Đại học Chính trị). Năm 1999, kết
thúc khóa học, các học viên tốt nghiệp ra trường, nhận công tác, tôi tiếp tục
nhận khóa mới, sau đó được đi học và khi tốt nghiệp Học viện Chính trị, lại
tiếp tục làm đại đội trưởng quản lý học viên, thời gian cuốn mình vào công
việc, nhiệm vụ. Sẽ không có dịp để ôn lại và nhớ về những kỷ niệm, về những học
viên của mình nếu như Việt không xuất hiện tại phòng làm việc của tôi. Hôm ấy,
vào chiều thứ Bảy, vừa triển khai nhiệm vụ cho tổ phương pháp xong, định ra sân
chơi bóng chuyền cùng học viên thì Việt “Mượt” đột ngột xuất hiện. Tôi rất bất
ngờ vì Việt công tác tại Tây Nguyên, sao lại … ở đây vào lúc này? Song, bất ngờ
hơn là chiếc thiệp hồng Việt đưa cho tôi. Việt bảo: Em về quê đợt này cưới vợ, em
ghé vào thăm và mời anh về dự đám cưới. Vợ ở Lạng Giang à? Cô ấy làm nghề gì? -
Tôi hỏi
- Anh có nhớ cô bé Thủy không? Thủy con bố Toan ở Hữu
Chấp ấy? - Việt cười.
Phải
lục lại trí nhớ, tôi mới: “À...Thủy lém,
cô bé cho anh em mình ăn “quả lừa” chứ gì?”.
-
Còn ai nữa, vợ sắp cưới của em đấy. Việt tỏ vẻ tự hào, khẳng định. Tưởng hai
đứa đã chia tay nhau từ hồi ra trường rồi cơ mà? - Tôi hỏi.
Như
đọc được những băn khoăn và vẻ ngạc nhiên của tôi, Việt cười và nói: “Rồi em sẽ kể cho anh nghe...”.
Ngược
thời gian 4 năm trước, khi đó tôi là Phó Đại đội trưởng chính trị Đại đội 3,
Tiểu đoàn 5. Mùa hè năm 1997, Tiểu đoàn 5 được phân công làm công tác dân vận ở
xã Hòa Long, huyện Yên Phong, TP Bắc Ninh. Đơn vị tôi đóng quân tại thôn Hữu
Chấp. Với phương châm ba cùng (cùng ăn, cùng ở, cùng lao động) với nhân dân địa
phương. Việt được phân công về sinh hoạt với gia đình chú Toan, Dũng “Diềm” ở
cùng với tôi - Chỉ huy đại đội tại nhà bác Sử. Tôi đưa Dũng, Việt đi trước để
“trinh sát địa bàn” - nắm các gia đình để khi đơn vị đến thì dẫn các học viên vào
các nhà theo phân công. Ba anh em còn đang ngó nghiêng ở đầu xóm để hỏi thăm,
bất chợt gặp một tốp các cô gái vừa đi vừa trò chuyện rất rôm rả. Nhìn thấy
chúng tôi, các cô vừa hát vừa trêu: “Lúc
còn thơ ngắm nhìn anh bộ đội, thấy ngôi sao sáng ngời... em thích lắm... ba anh
bộ đội ơi!”. Tôi, Dũng và Việt đều đỏ mặt, chưa kịp phản ứng gì thì một cô
trong tốp có dáng dỏng cao, ánh mắt đen nhánh ấn tượng, hai bím tóc ngang vai
cứ lắc lắc thật ngộ nghĩnh bước ra: “Các
anh về “dân vận” nhà ai đấy ạ?”. “À...
à... tôi hỏi nhà chú Toan và bác Sử...” - Việt lúng túng. Cả mấy cô gái cùng
nhìn nhau và cười to, càng làm chúng tôi bối rối. Cô gái tỏ vẻ nghiêm túc nhưng
vẫn không che nổi nụ cười tủm tỉm khi chỉ nhà cho chúng tôi. Tôi, Dũng và Việt
hăm hở bước vào nhà theo sự chỉ dẫn. Nhưng ngay sau đó, một lần nữa chúng tôi
lại phải đỏ mặt vì... nhầm nhà!
Khi
tôi đem chuyện này nói với bác Sử, Bác khẽ bảo: “Chắc là cái Thủy con nhà Toan. Nó là đứa lém lỉnh, học giỏi có tiếng ở
vùng này đấy, nhưng khổ nỗi nhà khó khăn quá. Nghe đâu nó phải bỏ dở cấp
ba...”.
Hôm
sau, trong buổi quân dân cùng vệ sinh xóm ngõ, khi đi đôn đốc, kiểm tra đơn vị,
tôi nhận ra Việt đang đứng cạnh cô gái bữa trước. Vẫn ánh mắt và bím tóc kia
nhưng hôm nay sao thấy cô có vẻ buồn buồn. Việt kéo tôi ra một chỗ nói nhỏ: “Báo cáo anh, tối qua cả nhà ngồi uống nước,
em vô tình hỏi chuyện học hành của Thủy, cô ấy chẳng nói gì mà chỉ ôm mặt khóc.
Chú Toan nói như khẳng định: “Con gái học nhiều làm gì, chỉ cần biết chữ là
được rồi. Học cao cuối cùng có khi lại về quê lấy chồng như ai. Hay lại như con
ông Bình xóm trên ấy, bốn năm đại học tốn biết bao nhiêu tiền của, bây giờ vẫn
chưa xin được việc, mà... tuổi ấy ở quê là nhỡ nhàng rồi đấy...”. Cô Toan thì
thở dài: “Khổ thân con bé, học hành cũng
khá, thầy cô, bạn bè quý mến lắm, nhưng nó còn những ba em nhỏ, nhà trông vào
mấy sào ruộng, mà bây giờ học hành đóng góp nhiều quá. Nó muốn học lắm, tuần
này phải ở nhà, cứ ai nói động đến việc học là khóc...”. Việt trầm ngâm rồi
đề nghị với tôi: “Có lẽ đơn vị mình phải
làm gì để giúp cô ấy, anh ạ”. Suy nghĩ một hồi, tôi gật đầu đồng ý và gợi ý
cho Việt...
Tối
đó, tại nhà Thủy, bên ấm chè xanh với sự có mặt của Tôi, Anh Phê (Trưởng thôn)
cùng với Tiến “nhà báo”, Dũng, Năng và Diêm Thành, chuyện nổ như ngô rang với
nhiều chủ đề, thế rồi chuyển sang chủ đề về việc học của Thủy một cách tự
nhiên. Được sự phân tích chân tình, ngọn ngành của mọi người, cô chú Toan cũng
đã xiêu xiêu... Mấy hôm sau, thầy Hiệu trưởng, cô Chủ nhiệm, rồi bạn bè cùng
lớp tới thuyết phục gia đình và động viên Thủy tới trường. Cô chú Toan xúc động
lắm… và Thủy lại được tiếp tục đến trường.
Nửa
tháng dân vận trôi qua thật mau, bao nhiêu việc làm, tình cảm để lại trong lòng
bà con nhân dân. Sáng Chủ nhật, Tôi đi chào tạm biệt, cảm ơn các gia đình. Trước
khi hành quân về Trường, tôi tập trung đơn vị tại Sân kho Hợp tác xã, rất đông
bà con, học sinh, thanh niên nam nữ có cả…ra tiễn chúng tôi; nhớ mãi những tình
cảm nồng hậu mà bà con đã dành cho, nhiều người mắt đỏ hoe... Đồng chí Trưởng thôn
thay mặt cho nhân dân phát biểu cảm tưởng, cảm ơn Nhà trường và đơn vị …Tôi
thấy Thủy đứng cạnh Việt thật lâu mà chẳng nói được gì. Họ trao nhau cặp mắt
long lanh, vương vấn…
Những ngày tháng sau đó, Việt và Thủy thường xuyên thư từ
cho nhau. Thủy thì kể về sự giúp đỡ của thầy cô bạn bè, rồi động lực vươn lên
vượt khó và những ước muốn trong tương lai. Còn Việt thì thổ lộ những ấn tượng
ngày họ bên nhau, chuyện nghiệp binh, đời lính...Năm sau, Thủy tốt nghiệp cấp ba,
thi đậu vào Cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh. Thỉnh thoảng có dịp nghỉ họ lại đến thăm
nhau và rồi yêu nhau lúc nào không biết. Tình yêu giúp họ có thêm sức mạnh để
vượt qua mọi khó khăn. Lúc ấy ai cũng nghĩ không thể có gì chia cắt họ được.
Năm 1999, cả hai đều tốt nghiệp ra trường. Thủy nhận công
tác ở gần nhà, còn Việt được phân công vào Binh đoàn Tây Nguyên công tác. Không
chỉ tôi mà ai cũng thấy ái ngại cho chuyện của hai người: Việt nhận công tác ở tận
Tây Nguyên, quê thì ở Bắc Giang; còn Thủy lại ở Bắc Ninh, quả là bài toán khó! Mấy
ngày liền, tôi thấy Việt dằn vặt ghê lắm, Việt đã quyết định nói lời chia tay
với Thủy. Chúng tôi khi đó, ai cũng đều nghĩ rằng chỉ còn cách lựa chọn ấy
thôi...
Tôi
bỗng giật mình và trở về thực tại sau cái cười sảng khoái và rất duyên của Việt.
Việt kể: Chuyện cứ như tiểu thuyết ấy, anh nhỉ. Sau đợt khủng hoảng tưởng không
thể cứu vãn nổi, nào ngờ trong lúc em đang nghỉ phép ở quê, không biết cách nào
mà Thủy về tận nhà em được. Liều thật! Cô ấy khóc và trách em “coi thường cô
ấy”, rồi khuyên em nên “nghĩ lại”. Còn nghĩ thế nào được nữa vì em biết mình cũng
còn yêu thương cô ấy lắm. Nhận công tác được vài tháng, dịp 22/12 năm ấy, Thủy
lại khăn gói lặn lội vào Tây Nguyên thăm em anh ạ, nghĩ cũng tội. Trong chuyến
đi ấy, biết được hoàn cảnh tụi em, Thầy Hiệu trưởng Trường cấp hai, đơn vị kết
nghĩa thông cảm và đồng ý tiếp nhận Thủy anh ạ. Sau khi làm đám cưới ở quê xong
mấy bữa, bọn em tính sẽ vào đó lập nghiệp, gắn bó với núi rừng Tây nguyên. Các
cụ hai bên ban đầu cũng ái ngại, lo lắng và có ý can ngăn, nhưng giờ thì thông
rồi...anh ạ.
Nhìn khuôn mặt rạng rỡ của Việt, tôi biết em đang rất hạnh
phúc. Lúc chia tay, Việt nắm chắc tay tôi và còn nhắc lại: “Hôm cưới em, nhất định anh phải đưa chị và cháu đến đấy nhé. Anh vừa
là chỉ huy, vừa là “nhân chứng sống” trong câu chuyện tình của chúng em. Lúc
đó, Anh em mình cùng hàn huyên ôn lại kỷ niệm của những ngày ở Hữu Chấp anh nhé,
chắc là Thủy vui lắm đấy, giờ em xin phép về quê kẻo muộn”! Việt đi rồi,
lòng tôi thấy vui lây niềm hạnh phúc.